Trong văn bản Phúc tấn

Do chỉ có tước Vương sử dụng, nên trong Hán văn thì [Phúc tấn] cũng đồng nghĩa [Vương phi], các văn bản thời Thanh khi tuyên phong cũng không ít lần sử dụng ["Phi"] để thay cụm danh xưng Phúc tấn, ví dụ:

  • Sách văn của Hiếu Kính Hiến Hoàng hậuÔ Lạp Na Lạp thị và Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu Phú Sát thị, các bà đều được gọi là [Đích phi; 嫡妃] do các bà là chính thất, lại còn là Nguyên phối - tức người được cưới hỏi chính thức đầu tiên. Nội dung sách văn của Phú Sát thị như sau: ["Tư nhĩ Đích phi Phú Sát thị, chung tường huân tộc"; 咨尔嫡妃富察氏、钟祥勋族].
  • Đồng thời, Nguyên phối Phúc tấn - tức Phúc tấn có cưới hỏi chính thức đầu tiên cũng hay được gọi là [Nguyên phi; 元妃], nhưng lại hay dùng biểu thị rằng người ấy đã qua đời. Ví dụ điển hình có Hiếu Mục Thành Hoàng hậu Nữu Hỗ Lộc thị trước khi có thụy hiệu, được dụ chỉ truy phong làm Hoàng hậu, trong dụ chỉ có đoạn nói rõ: ["Dụ Nội các, Trẫm Nguyên phi Nữu Hỗ Lộc thị, ứng truy phong vi Hoàng hậu";谕内阁、朕元妃钮祜禄氏。应追封为皇后。]. Điều này cũng tương tự Hiếu Đức Hiển Hoàng hậu Tát Khắc Đạt thị của Hàm Phong Đế: ["Hựu dụ, Trẫm Nguyên phi Tát Khắc Đạt thị, ứng truy phong vi Hoàng hậu";又谕、朕元妃萨克达氏。应追封为皇后].
  • Kế Phúc tấn, tức Phúc tấn có cưới hỏi chính thức sau khi Nguyên phối Phúc tấn qua đời, thường được gọi là [Kế phi; 继妃] để phân biệt với Nguyên phi. Trường hợp này có Hiếu Thận Thành Hoàng hậu Đông Giai thị, trong chỉ dụ lập làm Hoàng hậu như sau: ["Hoàng đế Kế phi Đông Giai thị. Nhu gia duy tắc. Hiếu kính vô vi. Cửu phu hoán trạc chi phong. Giáo tuyên cung kiệm. Khắc tương túc ung chi hóa. Hiền trứ tự huy. Ứng chính Trung cung"; 皇帝继妃佟佳氏。柔嘉维则。孝敬无违。久孚浣濯之风。教宣躬俭。克相肃雝之化。贤著嗣徽。应正中宫].